Lịch sử Già_Da

Theo một truyền thuyết được ghi lại trong Tam quốc di sự được viết vào thế kỷ 13, vào năm 42 SCN, sáu quả trứng từ thiên đường đã rơi xuống với một lời nhắn rằng họ sẽ trở thành những vị vua. Sáu cậu bé được sinh ra, và trong 12 ngày họ đã trưởng thành. Một người trong số họ, tên là Thủ Lộ (Suro), trở thành vua của Kim Quan Già Da (Geumgwan Gaya), còn 5 người khác thành lập 5 Gaya còn lại, tên là Đại Già Da (Daegaya), Tinh San Già Da (Seongsan Gaya), A La Già Da (Ara Gaya), Cổ Ninh Già Da (Goryeong Gaya) và Sogaya.[6]

Các chính thể Gaya phát triển từ cấu trúc của 12 bộ lạc Biện Hàn cổ đại, một trong Tam Hàn. Các thủ lĩnh bộ lạc được liên kết lỏng lẻo thành 6 nhóm Gaya, tập trung quanh Kim Quan Gia Da. Dựa trên các bằng chứng khảo cổ cũng như các sử sách, một số học giả xác định cuối thế kỷ 3 là giai đoạn chuyển tiếp từ Biện Hàn sang Gaya, với việc gia tăng các hoạt động quân sự và thay đổi phong tục tang lễ.[7] Sin[8] có lập luận xa hơn rằng điều này có liên hệ với việc thay đổi tầng lớp thượng lưu trước đó trong một số lãnh địa (bao gồm cả Đại Gia Da) bằng các thành phần đến từ Phù Dư Quốc, những người đã mang đến nhiều tư tưởng quân sự và cách thức lãnh đạo.

Liên minh Già Da tan rã dưới áp lực từ Cao Câu Ly từ năm 391 đến 412, mặc dù thực thể Già Da cuối cùng vẫn còn tồn tại cho đến khi bị Tân La chinh phục vào năm 562, như một sự trừng phạt do việc đã liên minh với Bách Tế trong cuộc chiến chống lại Tân La.

Đàn tranh gayageum (hangul:가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Triều TiênHàn Quốc. Theo Tam quốc sử ký (hangul:삼국사기) của Hàn Quốc ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum.Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương”.